Khả năng ung thư vú tái phát tại chỗ sau BCT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cá nhân, yếu tố khối u và yếu tố điều trị
Ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I hoặc II, tái phát tại chỗ xuất hiện ở 7-20% bệnh nhân được điều trị bằng BCT và 4-14% bệnh nhân được điều trị bằng MRM. Tuy nhiên, thời gian bị tái phát khác nhau. Tái phát tại chỗ thường xuất hiện muộn sau BCT nhiều năm, trong khi đó tái phát tại chỗ thường xuất hiện trong vòng ba năm sau MRM.
Cần lưu ý là BCT không thể ngăn ngừa hoàn toàn một khối u mới mọc ở mô vú còn sót. Ở bệnh nhân được diều trị bằng BCT, nguy cơ có một khối u mới, không liên quan ở cùng bên là khoảng 1%/năm (tức nguy cơ là 13% sau 15 năm tiến hành phẫu thuật.) Do đó, bệnh nhân được điều trị bằng BCT phải tiếp túc tiến hành tự khám vú và khám sàng lọc cả hai bên vú bằng chụp X-Quang tuyến vú.
1. Các yếu tố nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ sau BCT
a. Các yếu tố cá nhân
Độ tuổi của người bệnh dường như có ảnh hưởng tới nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT. Bệnh nhân được điều trị BCT khi ở độ tuổi từ 40 trở xuống có vẻ có nguy cơ tái phát tại chỗ cao hơn những người trên 40 tuổi. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy bệnh nhân trẻ tuổi hơn có khả năng tái phát tại chỗ sau MRM cao hơn. Do đó, tuổi còn trẻ không được coi là một yếu tố góp phần quyết định lựa chọn phương thức điều trị mà phải coi là một dấu hiệu ung thư vú chỉ điểm cho nguy cơ tái phát tại chỗ cao hơn.
b. Các yếu tố khối u
Nguy cơ tái phát tại chỗ của khối u sau BCT cũng chịu ảnh hưởng của hai yếu tố liên quan đến khối u:
– Tế bào ung thư vú còn sót ở mép vết mổ. Tế bào ung thư còn sót ở mép cắt làm tăng nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT là 7% ở bệnh nhân không còn sót tế bào ung thư, so với 18% ở bệnh nhân còn sót tế bào ung thư. Mặc dù bác sĩ phẫu thuật sẽ cố gắng lấy toàn bộ tế bào ung thư khi tiến hành phẫu thuật, đôi khi vẫn còn các tế bào ung thư sót lại sau phẫu thuật khi nghiên cứu vi thể khối u kỹ hơn.
– Có tế bào ung thư nội ống. Việc xem xét có tế bào ung thư trong nhiều ống ở mô vú đã được cắt bỏ là một công cụ hữu ích để đánh giá nguy cơ tái phát tại chỗ. Nguy cơ tái phát tại chỗ cao hơn khi tế bao ung thư có mặt ở nhiều ống trong khối u hoặc trong mô vú lành nếu tế bào ung thư vẫn còn sót ở mép cắt. Một số dấu hiệu trên phim chụp vú trước phẫu thuật thường cảnh báo bác sĩ phẫu thuật về sự có mặt của tế bào ung thư nội ống. Trong các trường hợp như vậy, bác sĩ phẫu thuật cần đặc biệt chú ý để đảm bảo không còn sót tế bào ung thư ở mép cắt.
c. Các yếu tố điều trị
Có ba yếu tố điều trị ung thư vú ảnh hưởng tới nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT:
– Phạm vi phẫu thuật. Nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ sau BCT thấp hơn khi lượng mô vú được cắt bỏ nhiều hơn.
– Xạ trị tăng cường. Xạ trị tăng cường là chiếu thêm một liều xạ vào vùng trước đó đã có khối u. Không phải tất cả mà chỉ một số nghiên cứu cho thấy xạ trị tăng cường có làm giảm chút ít nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ, mặc dù liều tăng cường này có thể làm giảm nhẹ kết quả thẩm mỹ của BCT.
– Hóa trị hoặc hoóc-môn. Hóa trị và hoặc hoóc-môn thường được khuyến cáo sau phẫu thuật đối với ung thư vú khu trú. Bổ sung các liệu pháp này cùng với BCT sẽ làm giảm tiếp nguy cơ tái phát tại chỗ, mặc dù không phải tất cả bệnh nhân đều cần điều trị ung thư vú bằng cả hai liệu pháp này.
Ví dụ, trong một nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư vú có hạch âm tính, không có thụ thể estrogen (viết tắt là ER), được điều trị hóa trị so sánh với không dùng hóa chất sau BCT. Dấu hiệu Ung thư vú tái phát tại chỗ trong vòng tám năm ở 2.6% bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất và ở 13.4% bệnh nhân không được điều trị bằng hóa chất.
Trong nghiên cứu thứ hai tiến hành trên bệnh nhân ung thư vú có hạch âm tính và có thụ thể estrogen được điều trị bằng tamoxifen so sánh với dùng thuốc vờ sau BCT. Ung thư tái phát tại chỗ trong vòng 10 năm ở 4.3% bệnh nhân được điều trị bằng tamoxifen và ở 14.7% bệnh nhân được điều trị bằng thuốc vờ.
2. Điều trị tái phát tại chỗ
Nhiều bệnh nhân tái phát tịa chỗ có thể được tiến hành thủ thuật cắt vú “triệt để” và vẫn có cơ hội được chữa khỏi bệnh nếu u không lan rộng hơn nữa.