Ung thư tuyến giáp thường không có triệu chứng rõ ràng ngay từ ban đầu khi bệnh mới xuất hiện. Vì vậy, người bệnh sẽ rất khó nhận biết. Trong một số ít trường hợp, ung thư tuyến giáp có các triệu chứng đầu tiên là khối u thứ cấp trong xương hoặc phổi sau khi ung thư đã lan tràn ra ngoài tuyến giáp.
Mặc dù các nguyên nhân chính xác gây ra bệnh ung thư tuyến giáp còn chưa được xác định rõ ràng nhưng các chuyên gia sức khỏe cũng không phủ nhận một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến giáp.
Ở giai đoạn sớm, ung thư tuyến giáp có thể không gây ra triệu chứng. Khi có triệu chứng, các triệu chứng thường gặp là:
– Đau ở cổ, có thể lan lên tai.
– Khối u ở cổ, có thể phát triển nhanh hay chậm.
– Khó nuốt.
– Khàn giọng hay tắt tiếng.
– Khó thở.
– Ho kéo dài.
Diến tiến của bệnh:
– Carcinôm tuyến giáp dạng nhú thường gặp nhất chiếm 80% ung thư tuyến giáp. Carcinôm tuyến giáp dạng nhú có kích thước nhỏ hơn hay bằng 1 cm được gọi là carcinôm kích thước nhỏ hoặc tiềm ẩn. Loại này ít có ý nghĩa lâm sàng do diễn tiến chậm. Biểu hiện lâm sàng carcinôm tuyến giáp thường là một hạt giáp và không gây rối loạn chức năng. Bướu có thể lan tràn theo mạch bạch huyết trong tuyến giáp giải thích tình trạng đa ổ.
– Carcinôm dạng nhú rất ưa di căn hạch vùng, tuy nhiên di căn hạch không ảnh hưởng đến tiên lượng sống còn. Các loại carcinôm dạng nhú biệt hoá kém có diễn tiến trung gian gồm các biến thể: loại đảo, loại tế bào cao, tế bào sáng và loại xơ hoá. Carcinôm tuyến giáp dạng nhú ở trẻ con thường có bướu lớn và di căn hạch sớm.
– Carcinôm dạng nang chiếm 5-10% ung thư tuyến giáp, thường gặp trong vùng thiếu iod, biểu hiện lâm sàng bởi hạt giáp, và thường là đơn ổ với vỏ bao rõ. Carcinôm dạng nang hay lan tràn qua đường máu và cho di căn xa. Nhìn chung carcinôm dạng nang có tiên lượng xấu hơn carcinôm tuyến giáp dạng nhú. Carcinôm tế bào Hurthle, biến thể của carcinôm dạng nang, có độ biệt hóa kém và diễn tiến mạnh hơn.
– Carcinôm dạng tuỷ, nguồn gốc từ tế bào cận nang C, tế bào này sản xuất ra calcitonin. Khoảng 25% carcinôm dạng tuỷ có tính di truyền, liên hệ đến hội chứng đa bướu nội tiết MEN 2a, MEN 2b, có đột biến gene RET và di truyền theo kiểu tế bào tự thân kiểu trội. Carcinôm dạng tuỷ di truyền có thể tăng calcitonin và CEA trong huyết thanh. Carcinôm dạng tuỷ tự phát biểu hiện lâm sàng bằng khối bướu đơn độc và ưa di căn hạch.
– Carcinôm không biệt hoá hiếm gặp, chiếm 1% ung thư tuyến giáp, thường gặp ở ngưới lớn tuổi, phát triển nhanh và cho di căn xa. Loại này có thể bắt nguồn từ carcinôm dạng nang, diễn tiến chậm trong các bệnh nhân ở vùng phình giáp dịch tể thiếu iod. Hầu hết các trường hợp gây tử vong do bướu xâm lấn tại chỗ, thường là chèn ép khí quản.
Chẩn đoán bệnh:
Bác sĩ có thể sử dụng một vài thử nghiệm để biết về kích cỡ và vị trí của một nhân giáp hoặc để xác định xem khối u là lành tính (không ung thư) hay ác tính (ung thư).từ đó đưa ra kết quả của việc chuẩn đoán ung thư tuyến giáp
Ví dụ, bác sĩ có thể cho làm các xét nghiệm máu để kiểm tra chức năng tuyến giáp của bệnh nhân. Cũng như vậy, xạ hình tuyến giáp với iốt phóng xạ có thể phác họa các vùng bất thường của tuyến giáp. Để ghi xạ hình người ta đưa vào cơ thể bệnh nhân một một lượng rất nhỏ chất phóng xạ (thường là iốt I-131 hoặc technetium TC-99m), chất này tập trung tại tuyến giáp. Một dụng cụ được gọi là máy quét (scanner) có thể phát hiện các “ổ lạnh” trong tuyến giáp, đó là những vùng không hấp thụ iốt như bình thường. Bởi vì các ổ lạnh này có thể là lành tính hoặc ác tính nên cần phải làm thêm các xét nghiệm khác nữa.
Siêu âm là một phương pháp khác để có được một bức tranh về tuyến giáp. Trong phương pháp này, các sóng âm tần số cao mà con người không thể nghe thấy truyền vào tuyến giáp. Các thành phần âm dội từ những sóng âm này được chuyển thành hình ảnh (sonogram) nhờ một máy vi tính. Dựa vào đó các bác sĩ có thể kết luận các nhân là nang dịch (thường là u lành) hay chúng là các u rắn (có thể là u ác tính).
Cách chắc chắn duy nhất để nói một bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp là quan sát tế bào tuyến giáp trên kính hiển vi. Có hai cách để lấy mẫu của mô tuyến giáp, một là bằng kim hút tế bào (sinh thiết bằng kim) hoặc cắt bỏ khối u bằng phẫu thuật (sinh thiết phẫu thuật). Trong mỗi trường hợp, bác sĩ mô bệnh học nghiên cứu mô lấy được dưới kính hiển vi để tìm kiếm các tế bào ung thư.
Nếu sinh thiết bằng kim hút không cho thấy ung thư tuyến giáp thì bác sĩ có thể cho bệnh nhân dùng các hoóc-môn tuyến giáp. Những hoóc-môn này làm cho tuyến giáp không cần sản xuất các hoóc-môn của chính bản thân nó và tuyến giáp, bao gồm cả các nhân, co lại và trở nên bất hoạt. Nếu sinh thiết bằng kim không thể làm sáng tỏ chẩn đoán hoặc nếu các hoóc- môn tuyến giáp không hiệu quả thì bệnh nhân đó thường phải làm phẫu thuật sinh thiết.
Có thể tóm lược một số phương pháp chẩn đoán ung thư tuyến giáp như sau:
– Chụp X-quang: Chủ yếu dùng để quan sát mối quan hệ giữa khí quản và tuyến giáp. Việc chụp X-quang phần cổ ngoài việc quan sát xem khí quản có tình trạng bị lệch vị trí hay có tình trạng bị chèn ép không, còn có thể quan sát bên trong tuyến giáp có tình trạng bị vôi hoá không nữa.
– Siêu âm: Không chỉ có thể phát hiện được tình trạng, kích thước, số lượng của khối u bên trong tuyến giáp mà còn có thể xác định là khối u nang hay khối u rắn. Nếu như phát hiện các triệu chứng như tuyến giáp có khối u hoặc hạch bạch huyết cục bộ sưng to, nên tiến hành siêu âm.
– Xét nghiệm tế bào: Xét nghiệm tế bào không chỉ giúp phân biệt rõ tính chất của khối u là lành tính hay ác tính mà còn có thể phân định rõ loại hình bệnh lý của khối u ác tính. Vì vậy, mỗi một mẫu trong tuyến giáp đem đi xét nghiệm, thường được tiến hành kiểm tra cắt lớp.
– Kiểm tra bằng phóng xạ hạt nhân: kiểm tra này có thể xác định rõ trạng thái, vị trị và chức năng của tuyến giáp, là phương pháp thường dùng trong chẩn đoán các bệnh trong tuyến giáp.
– Chụp CT: Chụp CT có thể hiển thị rõ vị trí, trạng thái, kích cỡ của khối u và mối quan hệ giữa cổ họng, khí quản, thực quản, đồng thời có thể nhìn thấy mức độ xâm lấn của khối u. Có thể cung cấp dữ liệu đáng tin cậy cho việc chẩn trị ung thư tuyến giáp.
Khi chuẩn đoán ung thư tuyến giáp, các bác sĩ có thể tiến hành nhiều xét nghiệm hơn để xem bệnh đang ở giai đoạn nào, nguyên nhân ung thư tuyến giáp… Trước khi tới các bệnh viện ung bướu chuẩn đoán tuyến giáp, tham khảo trước các triệu chứng ung thư tuyến giáp để trao đổi các bác sĩ rõ ràng hơn. Những kết quả của các xét nghiệm này giúp các bác sĩ lập kế hoạch điều trị ung thư tuyến giáp phù hợp.
Chẩn đoán sớm phát hiện sớm và điều trị sớm bệnh ung thư tuyến giáp, là mấu chốt trong việc tiên lượng bệnh. Nếu bạn phát hiện mình có các triệu chứng bất thường trong tuyến giáp, cần đến ngay bệnh viện chuyên khoa để làm các xét nghiệm và kiểm tra cần thiết.
Thông tin hữu ích
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Okinawa Fucoidan Kanehide 180 viên Nội Địa Nhật (Fucoidan Xanh)
Fucoidan
Fucoidan
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Okinawa Fucoidan Kanehide Nhập Khẩu 180 viên (Fucoidan Xanh)
Fucoidan
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Okinawa Fucoidan Kanehide 180 viên Nội Địa Nhật (Fucoidan Xanh)
Fucoidan
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Okinawa Fucoidan Kanehide Nhập Khẩu 180 viên (Fucoidan Xanh)
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Fucoidan
Giá: 2.200.000 VND
Fucoidan khi được tế bào ung thư hấp thụ vào sẽ tự thiết lập và bắt tế bào ung thư tuân theo chu trình tự chết. Mọi tế bào bình thường đều phải trải qua chu trình tự chết, chỉ có tế bào ung thư là vượt qua được qui luật này.
Liên hệ:
Địa Chỉ: 428 Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10, Tp HCM
Hotline: 0925 500 600 – Ms. Phương
Bài viết cùng chủ đề: