Kim loại nặng không độc khi ở dạng nguyên tố tự do, nhưng rất độc ở dạng Ion, vì nó có thể gắn kết các chuỗi cacbon ngắn khó đào thải và gây ngộ độc, tích tụ lâu dần có thể gây ung thư
Mục lục
Những kim loại nặng có nguy cơ gây ung thư
Asen ( thạch tín)
Asen là nguyên tố đầu tiên được chứng minh là có thể gây ung thư cho con người vào cuối những năm 1980.Báo cáo khẳng định thạch tín có thể gây ung thư da và ung thư phổi .
Asen là một nguyên tố không chỉ có trong nước mà còn có trong không khí, đất, thực phẩm. Asen và các hợp chất của nó được sử dụng như là thuốc trừ dịch hại, thuốc trừ cỏ, thuốc trừ sâu và trong một loạt các hợp kim.
Tình trạng nhiễm độc asen lâu ngày còn có thể gây ung thư (gan, phổi, bàng quang và thận) hoặc viêm răng, khớp, gây bệnh tim mạch, cao huyết áp. Ảnh hưởng độc hại đáng lo ngại nhất của Asen tới sức khoẻ là khả năng gây đột biến gen, ung thư, thiếu máu, các bệnh tim mạch (cao huyết áp, rối loạn tuần hoàn máu, viêm tắc mạch ngoại vi, bệnh mạch vành, thiếu máu cục bộ cơ tim và não), các loại bệnh ngoài da (biến đổi sắc tố, sạm da, sừng hoá, ung thư da…), tiểu đường, bệnh gan và các vấn đề liên quan tới hệ tiêu hoá, các rối loạn ở hệ thần kinh – ngứa hoặc mất cảm giác ở chi và khó nghe.
Crom
Ngay từ năm 1890, người ta đã công nhận rằng các hợp chất crom có thể gây ung thư ở người. Vào cuối những năm 1940, các học giả từ các quốc gia khác nhau đã liên tiếp thực hiện nhiều nghiên cứu và báo cáo, và cơ sở rõ ràng nhất là từ việc sản xuất cromat và sản xuất và ứng dụng sắc tố cromat .
Hoa Kỳ đã báo cáo tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở công nhân sản xuất cromat tăng gấp 30 lần, và tỷ lệ mắc ung thư phổi của công nhân trong ngành sản xuất bột màu của Đức cũng cao. Các thí nghiệm trên động vật đã phát hiện ra rằng canxi cromat, kẽm cromat, stronti cromat và chì cromat có thể gây ung thư và gây ung thư. Crom là kim loại thuyết phục duy nhất có độc tính với gen , và độc tính của nó phụ thuộc vào trạng thái oxy hóa và độ hòa tan, và chỉ cromat có độ hòa tan thấp mới là chất gây ung thư.
Niken
Ung thư phổi và vòm họng, được tìm thấy trong các lò luyện niken ở Anh và xứ Wales vào năm 1932 . Các học giả ban đầu tin rằng các hợp chất niken gây ung thư chủ yếu là niken gốc cacbon, nhưng gần đây hầu hết các học giả tin rằng bụi chứa niken là chất gây ung thư chính.
Các hợp chất niken hòa tan có dạng khí dung vì các hạt nhỏ của chúng, có thể dễ dàng đến phổi, dẫn đến ung thư phổi; các hợp chất niken không hòa tan có dạng bụi, có các hạt lớn, dễ lưu lại trong khoang mũi. Ngoài ra gây ung thư phổi, cũng có thể gây ung thư vòm họng. Khi cả hai tồn tại cùng một lúc, sẽ có tác động kết hợp, và nguy cơ ung thư sẽ được tăng cường rất nhiều.
Berili
Vào đầu những năm 1980, các báo cáo dịch tễ học về khả năng gây ung thư của berili đối với con người bắt đầu xuất hiện, điều này làm dấy lên mối quan tâm rộng rãi của các học giả. Tỷ lệ tử vong do ung thư phổi cao hơn đáng kể trong số 9.000 công nhân làm việc tại bảy nhà máy berili ở Hoa Kỳ.
Các quan sát tiếp theo cũng cho thấy tỷ lệ tử vong do ung thư phổi cao hơn đáng kể ở những công nhân bị viêm phổi cấp do berili. Các thí nghiệm trên động vật đã xác nhận rằng việc truyền nhiều lần kim loại berili, ôxít beryllium, beryllium hydroxide, v.v. vào khí quản của chuột và khỉ có thể gây ung thư phổi.
Cadimi
Năm 1965, lần đầu tiên ở Vương quốc Anh có báo cáo rằng một số lượng lớn công nhân trong nhà máy sản xuất pin niken-cadmium bị ung thư tuyến tiền liệt , và một loạt các nghiên cứu sau đó cho thấy rằng những công nhân tiếp xúc với cadmium sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi.
Năm 1985, một cuộc khảo sát quy mô lớn đối với công nhân tại 17 nhà máy sản xuất cadimi ở Vương quốc Anh cho thấy tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở người lao động tăng lên và có xu hướng gia tăng khi thời gian làm việc và cường độ tiếp xúc tăng lên. Các thí nghiệm trên động vật cũng đã xác nhận rằng bụi cadmium hoặc các hợp chất cadmium là một yếu tố gây ung thư phổi.
Để phòng ngừa cũng như giảm các triệu chứng ung thư mọi người có thể bổ sung thêm những sản phẩm chức năng giúp tăng cường sức đề kháng, hệ miễn dịch góp phần tiêu diệt tế bào ung thư điển hình như các sản phẩm có thành phần fucoidan là chất được chiết xuất từ tảo nâu Mozuku Nhật Bản
Fucoidan hỗ trợ người bệnh từ trong điều trị và sẽ còn đồng hành suốt quá trình sau điều trị. Ức chế các tế bào ung thư còn xót lại không cho tế bào ung thư có cơ hội tấn công và phát triển.
Các sản phẩm thuốc fucoidan
Fucoidan
Fucoidan
Fucoidan
Fucoidan
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Fucoidan
Fucoidan
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Okinawa Fucoidan Kanehide Nhập Khẩu 180 viên (Fucoidan Xanh)
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Hỗ Trợ Điều Trị và Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư
Fucoidan