Mục lục
Trong những ca tử vong do ung thư, 10% chết vì khối u tại chỗ, 90% chết vì ung thư di căn, Sự di căn của khối u ác tính là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong do ung thư.
Sự lan tỏa (tiến triển) của tổ chức ung thư
Ung thư có hai cách lan tỏa là lan tỏa tại chỗ và lan tỏa ở những vùng xa cổ nguyên phát được gọi là di căn ung thư.
Lan tỏa tại chỗ
Còn gọi là xâm lấn ung thư. Thường lan tỏa tại chỗ theo 3 cách:
– Cách xâm lấn đẩy lùi tổ chức ra xung quang gọi là “vết dầu loang”.
– Từ khối u các tế bào mọc ra nhiều nhánh như rễ cây phát triển vào tổ chức gọi là chia nhánh”.
– Các tế bào ung thư di truyền cách xa vị trí nguyên phát, phát triển thành các ổ nhỏ gọi là “ cách gieo hạt”.
Các tế bào ung thư có thể phát triển xâm lấn do chúng có khả năng di chuyển như kiểu amib, điều này đã được Virchow chứng minh từ năm 1863, người ta đã quay được sự di chuyển kiểu amib của tế bào ung thư trong môi trường nuôi cấy. Các tế bào ung thư di chuyển được là do:
+ Tính gắn của tế bào ung thư giảm do canxi màng tế bào giảm (được phát hiện từ năm 1960), các tế bào ung thư tự tách rời nhau )(tế bào ung thư biểu mô gai lực kết dính giữa các tế bào kém hơn tế bào bình thường 4 lần).
+ Các tế bào ung thư tiết ra men hyaluronidase, protease, aminopeptidase phá hủy tổ chức căn bản có chứa acid hyaluronic, tạo điều kiện cho tế bào dễ dàng di chuyển.
+ Yếu tố cơ học: tăng sức ép của tổ chức u lên tổ chức lành do thể tích khối u ngày càng tăng lên
Sự xâm lấn tại chỗ vào mô bình thường là tiêu chuẩn hình thái chủ yếu chẩn đoán mô học ung thư đặc biệt trong ung thư biểu mô phủ như da, niêm mạc. Mất hay phá hủy màng đáy là tiêu chuẩn chắc chắn để phân biệt carcinoma tại chỗ hay xâm nhập.
Di căn ung thư
Di căn là sự lan tỏa các tế bào u ác tính từ vị trí nguyên phát tới một số vị trí khác trong cơ thể. Các khối u thứ phát đã gọi là di căn. Di căn là yếu tố quyết định quan trọng nhất tính chất ác tính của ung thư.
Các ổ di căn thường có kiến trúc giống với ổ nguyên phát nên ta có thể dựa vào hình ảnh mô học của chúng để tìm ra ổ nguyên phát. Trong trường hợp không thể xác định được người ta gọi là những ung thư nguyên phát không rõ nguồn gốc (carcinoma unknow primary site). Đây là những ung thư nguyên phát chưa có biểu hiện tại chỗ.
Di căn ung thư thường theo hai đường chính là đường bạch huyết, đường máu còn các đường khác: đường qua các hố thanh mạc, do cấy truyền. Dù theo con đường nào thì hậu quả của di căn là như nhau.
Di căn qua đường bạch huyết và đường máu thường khó có thể phân định được rõ ràng vì tại các hạch luôn có các mạch máu nhỏ và đường lympho cuối cùng sẽ lại đổ vào ống ngực.
Carcinoma thường di căn theo đường bạch huyết còn sarcoma thường di căn theo đường máu vì trong tổ chức ung thư này có nhiều mạch máu nhỏ và các mạch này thường thành mạch mỏng và yếu. Tuy nhiên một số sarcoma cũng có thể di căn cả đường mạch máu như sarcom cơ vân, sarcom màng hoạt dịch.
Không phải tất cả các tế bào ác tính đều có khả năng di ăn, người ta thấy một số dòng tế bào có khả năng di căn, một số dòng có khả năng xâm lấn còn một số thì nằm im tỏng tổ chức ung thư. Đây là đặc tính sinh học của tế bào u.
Di căn qua đường máu và đường bạch huyết có thể được thực hiện qua một số bước như sau.
Bước 1: Đầu tiên là các tế bào phải là tế bào có khả năng di căn.
Bước 2: Các tế bào này sẽ phát triển thành dòng tế bào ung thư (clonally) là nhóm tế bào riêng biệt. Chúng phát triển mạnh do sự phân chia liên tục.
Bước 3: Tế bào ung thư sẽ tự di chuyển đến mạch lympho hoặc mạch máu hay các khoang cơ thể.
Bước 4: Dịch bạch huyết, máu đưa tế bào từ ổ nguyên phát tới vị trí xa hơn ở đó tế bào gắn vào và bắt đầu phát triển khối u mới. Trong hệ thống tuần hoàn tế bào ung thư phải tránh được bị loại trừ bởi các tế bào miễn dịch như tế bào lympho T, tế bào giết tự nhiên và đại thực bào.
Bước 5: Tạo thành cục nghẽn mạch ung thư do các tế bào di căn có thể tiết ra các chất gây nghẽn mạch.
Bước 6: Xâm lấn, tế bào ung thư vượt qua vách mao mạch, phá hủy màng đáy bằng cách tiết ra men collagenase hòa tan fibronectin, lamin.
Bước 7: Sau đó các tế bào ung thư sẽ tự phân chia, tăng sản tạo thành các đám nhỏ gọi là di căn vi thể.
Để phát triển tiếp thành các ổ di căn to hơn (di căn đại thể) các ổ di căn ung thư phải trải qua hai thời kỳ:
+ Thời kỳ đầu là thời kỳ vô mạch các tế bào ung thư trao đổi chất bằng cách thẩm thấu đơn thuần.
+ Đến thời kỳ hai sẽ hình thành các mạch máu mới theo quy luật chung để tồn tại và phát triển, các tế bào u tiết ra các chất sinh mạch kích thích và tọa ra các mạch máu mới trong u (new blood vesel formation), cung cấp chất nuôi dưỡng và oxy cần thiết cho sự phát triển của u. Các nghiên cứu cho thấy quá trình di căn và sự phát triển của khối ung thư bị ức chế bởi việc tăng cường các kháng thể chống ung thư haowjc ức chế quá trình sinh mạch.
Di căn theo đường bạch huyết:
Các tế bào ung thư theo dòng lympho dừng lại tại các hạch đầu tiên, trong tổ chức hạch chúng thường nằm trong các xoang limpho ở vùng vỏ hạch. Tại đây lúc đầu chúng thường gây phản ứng viêm hạch mạn tính không đặc hiệu.
Trong tổ chức hạch các tế bào ung thư thay đổi ở các trạng thái sau:
– Có thể bị tiêu hủy.
– Ở lại hạch và phát triển thành ổ di căn hạch.
– Ở lại hạch và nằm im trong trạng thái im lặng.
– Vượt qua các hạch, qua mạch lympho đến các hạch ở xa hơn và đi vào dòng máu, cho nên phổi là nơi dễ bị di căn nhất. Các khối ung thư ở lồng ngực và trong bụng (ung thư phổi, dạ dày, thực quản) có thể xâm lấn vào trong ống ngực gây di căn ở hạch dưới đòn trái. Khi có hạch ở vùng này to cần phải xem xét một cách cẩn thận vì ó thể đấy là biểu hiện đàu tiên của một ung thư bên tỏng cơ thể.
Di căn theo đường máu.
Thường di căn theo đường tĩnh mạch hơn động mạch vì ở thành tĩnh mạch có nhiều các mạch bạch huyết di vào và chúng tọa thành đám lớn ở dưới tế bào nội mô, cho nên ngoài khả năng xâm lấn trực tiếp vào tĩnh mạch nhỏ tân tạo, tế bào ung thư còn vào tĩnh mạch gián tiếp qua đường bạch mạch trên.
Di căn theo đường máu phụ thuộc vào hệ thống chi phối của các loại tĩnh mạch của cơ quan có khối u nguyên phát:
– Kiểu phổi hay kiểu I: Ung thư tại phổi, tế bào ung thư qua tĩnh mạch phổi vào tim trái, vào đại tuần hoàn để di căn ở tất cả các phủ tạng (gan, não, xương, thận…).
– Kiểu gan hay kiểu IIP: Ung thư gan, các tế bào ung thư đi vào tĩnh mạch trên gan, tĩnh mạch chủ dưới, tim phải rồi vào phổi gây di căn.
– Kiểu tĩnh mạch chủ hay kiểu III: Ung thư ở các cơ quan không thuộc hệ thống cửa như tử cung, thận… tế bào ung thư đi vào tĩnh mạch chủ gây di căn ở phổi.
– Kiểu tĩnh mạch cửa hay kiểu IV: Ung thưu ống tiêu hóa theo đường tĩnh mạch cửa di căn gan (kiểu II) sau đó lại từ gan di căn đến phổi (kiểu II) sau đó lại vào đại tuần hoàn và gây di căn (kiểu IV).
Di căn qua các hố thanh mạc.
Di căn qua hố thanh mạc (khoang màng phổi, khoang màng bụng) là cách các tế bào có thể di chuyển nhờ các dịch trong các khoang này vận chuyển chúng đi. Cách lan tỏa này giải thích được hiện tượng các tế bào ung thư hay di truyển từ dạ dày vào buồng trứng (gọi là u Krukenberge do Krukenberge mô tả năm 1896) vào thanh mạc, trực tràng. Tuy vậy các di căn này không loại trừ vẫn có thể là di căn theo đường lympho.
Ở hộp sọ nơi không có các mạch bạch huyết thì di căn qua đường hố tự nhiên là điều chắc chắn, các tế bào u thần kinh đệm ác tính vào trong não thất và khoang dưới nhện đến dịch não tủy và gây nhiều ổ di căn.
Di căn do cấy truyền.
Là hiện tượng xảy ra khi các dụng cụ hay găng tay phẫu thuật dính và mang tế bào ung thư đến nơi khác, di căn theo đường này rất hiếm gặp. Brandes và cộng sự đã thấy một trường hợp mổ ung thư vú rồi lấy một mảnh da đùi để tạo hình vết mổ sau đó vài tháng một khối ung thư vú xuất hiện trên seo ở vùng lấy da đùi.
Như vậy, ung thư nếu như không được phát hiện và điều trị kịp thời, các tế bào ung thư có thể di chuyển từ vị trí ban đầu đến những vị trí khác, cơ quan bộ phận khác và bắt đầu nhân lên, hình thành khối ung thư mới có đặc điểm giống khối ung thư ban đầu. Việc điều trị ung thư di căn giai đoạn cuối gặp nhiều khó khăn và hiệu quả điều thị cũng bị giảm sút đáng kể. Vì vậy khi phát hiện ra bệnh ung thư, cần phải tiến hành điều trị ngay, để ngăn cản quá trình di căn của các tế bào ung thư.
Các sản phẩm thuốc Fucoidan
Giá: 2.200.000 VND
Fucoidan khi được tế bào ung thư hấp thụ vào sẽ tự thiết lập và bắt tế bào ung thư tuân theo chu trình tự chết. Mọi tế bào bình thường đều phải trải qua chu trình tự chết, chỉ có tế bào ung thư là vượt qua được qui luật này.
Liên hệ:
Địa Chỉ: 428 Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10, Tp HCM
Hotline: 0925 500 600 – Ms. Phương
Bài viết cùng chủ đề: