Trước kia, ung thư vú ở nam giới được coi là một bệnh ác tính thường phát hiện ở giai đoạn muộn và có tiên lượng xấu hơn rất nhiều so với nữ giới. Các số liệu gần đây hơn không hoàn toàn như vậy. Ví dụ, trong hai nghiên cứu người ta phát hiện thấy có 43 – 50% bệnh nhân
Điều trị ung thư vú namgiới chưa di căn cũng tuân theo các nguyên tắc chung như điều trị ung thư vú ở nữ giới. Bệnh giai đoạn khu trú thường được điều trị bằng phẫu thuật và tuỳ từng trường hợp có thể xem xét chỉ định điều trị bổ trợ.
Phẫu thuât cắt khối u.
Phương thức phẫu thuật truyền thống đối với bệnh khu trú là cắt vú triệt để có cải tiến. Một số ít bệnh nhân có tổn thương rộng ở cơ thành ngực hoặc có hạch Rotter có thể được cắt vú triệt để. Mặc dù phẫu thuật bảo tồn vú (cắt khối u sau đó chiếu xạ) là phù hợp đối với hầu hết bệnh nhân nữ có ung thư vú giai đoạn sớm, bệnh nhân nam thường không cần phải cân nhắc vì khối lượng mô vú ít và phần lớn các khối u thường nằm ở trung tâm.
Sinh thiêt hạch có nguy cơ di căn đầu tiên (hạch nhạy cảm)
Sinh thiết hạch nhạy cảm là một phương thức điều trị ít gây biến chứng thay thế cho vét hạch nách ở bệnh nhân nữ ung thư vú. Với những phẫu thuật viên có kinh nghiệm, sinh thiết các hạch này có thể dự báo chính xác tình trạng của các hạch vùng còn lại, giúp bệnh nhân tránh được phẫu thuật vét hạch nách. Phương pháp này đối với bệnh nhân nam cũng có giá trị như ở bệnh nhân nữ. Trong một nghiên cứu tiến hành trên 16 bệnh nhân nam ung thư vú khu trú, người ta thấy có từ 1 hạch nhạy cảm trở lên dương tính trong số 15 hạch khi dùng biện pháp nhuộm màu phối hợp bằng phóng xạ keo và phẩm xanh. 6 trong số 10 bệnh nhân có hạch nhạy cảm âm tính được vét hạch nách toàn bộ và tất cả đều có hạch âm tính.
Tiên lượng sau phẫu thuật
Cũng như bệnh nhân nữ ung thư vú, kích thước khối u, tổn thương hạch và số lượng hạch tổn thương là các yếu tố tiên lượng quan trọng nhất đối với bệnh nhân nam ung thư vú. Người ta đã thông báo tỷ lệ sống 10 năm của 335 bệnh nhân nam ung thư vú được ghi nhận trong 20 năm như sau:
– Hạch âm tính trên mô học – 84%
– Có 1 đến 3 hạch dương tính – 44%
– Từ 4 hạch trở lên dương tính trên mô học -14%
Vai trò của giai đoạn khối u đối với tỳ lệ sống 5 năm được công bố ở một nhóm 42 bệnh nhân nam ung thư vú thể xâm lấn:
– Giai đoạn I -100%
– Giai đoạn II – 83%
– Giai đoạn III – 60%
– Giai đoạn IV – 25%
Sự tương đồng về giới một phần có thể là do sự cải thiện tỷ lệ sống 5 năm ở bệnh nhân nam ung thư vú đã được mô tả ở hầu hết các nghiên cứu. Trong số 217 bệnh nhân namung thư vú được điều trị tại 18 cơ sở ở Wisconsin từ 1953 đến 1995 người ta thấy rằngnhững bệnh nhân được chẩn đoán sau năm 1986 có xu hướng đến khám khi bệnh còn ở giai đoạn sớm hơn và hay được phẫu thuật triệt để có cải tiến rồi tiến hành điều trị toàn thân bổ trợ hơn. So với giai đoạn trước đó, sự khác biệt này trùng hợp với sự cải thiện tỷ lệ sống 5 năm.