Ung thư tuyến giáp gồm 2 loại là đơn nhân và đa nhân. Người bệnh thường chỉ sờ thấy các nhân lớn, nằm gần bề mặt còn các nhân nhỏ thường phải khám nhờ siêu âm
Các nhân này có thể phát triển từ cùng của tuyến giáp vị viêm hoặc từ phần còn sót lại của tuyến này sau khi phẫu thuật. Có một số trường hợp một thuỳ tuyến giáp bị tao bẩm sinh, thuỳ còn lại sẽ phì ra để bù trừ và phát triển thành nhân giáp.
Trong ác u này có khoảng 15-20% là u nang chứa dịch.
Biểu hiện của ung thư tuyến giáp thường rất ít, bệnh có diễn biến âm thầm nên người bệnh thường không phát hiện ra. Đa số các trường hợp đều đi khám mới chẩn đoán ra bệnh, thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Đa số các nhân tuyến giáp ở dạng nằm im, không hoạt dộng nên ban đầu bệnh nhân không phát hiện ra nhưng đến khi bệnh phát triển, nó sẽ gây chén ép tại chỗ, dẫn đến khó nuốt, nuốt nghẹn, giọng nói khàn, sút cân nhanh chóng, tim đập nhanh…
Yếu tố nguy cơ:
Có thể do tiếp xúc với nồng độ bức xạ, bao gồm những người điều trị bức xạ đầu, cổ và bụi phóng xạ trong tai nạn hạt nhân hoặc thử nhiệm vũ khí.
Thừa hưởng hội chứng di truyền. Hội chứng di truyền làm tăng nguy cơ ung thư tuyến giáp bao gồm ung thư tuỷ tuyến giáp, tân nội tiết và nhiều bệnh polip adenomatous gia đình
Mặc dù bệnh đã điều trị, bệnh ung thư tuyến giáp có thể tái phát, ngay cả khi đã loại bỏ tuyến giáp. Đó là do các tế bào ung thư tràn ra ngoài tuyến giáp trước khi loại bỏ.
Vì không có những triệu chứng rõ ràng nên việc phòng ngừa ung thư tuyến giáp là tương đối khó khăn. Nếu muốn biết mình có mắc các bệnh ung thư tuyến giáp có tính di truyền hay không bạn nên đi xét nghiệm máu. Những người được xác định có mắc ung thư tuyến giáp có thể phải cắt bỏ tuyến giáp để ngăn ngừa ung thư lây lan ra nhiều cơ quan khác.